Tạng là những bộ phận trên cơ thể con người có chức năng chuyển hóa và tàng trữ khí, tinh, huyết, thần, tân và dịch. Các tạng của người gồm có 5 tạng đó là tâm, can, tỳ, phế và thận. Bên cạnh đó, phủ là các bộ phận của cơ thể có chức năng thu nạp, tiêu hóa, vận chuyển và hấp thu các chất dinh dưỡng, sau đó bài tiết các chất cặn bã ra ngoài. Mỗi tạng phủ đều có chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ để tạo thành một cấu trúc hoàn thiện
1. Quan hệ giữa các tạng
1.1 Tạng tâm và phế
Tâm chủ huyết và phế chủ khí. Tạng tâm và tạng phế kết hợp với nhau làm cho khí huyết vận hành giúp duy trì các hoạt động của cơ thể. Khí thuộc hành dương và huyết thuộc âm, khí thúc đẩy huyết di chuyển và vận hành, huyết đi kéo theo khí. Nếu khí không thúc đẩy được huyết sẽ ngừng lại và dẫn tới tình trạng ứ huyết. Nếu không có huyết, khí mất đi chỗ dựa để phân tán mà không thu lại được.
Một số chứng bệnh trên lâm sàng thường gặp bao gồm:
Phế khí hư nhược, trong tâm mạch tông khí không đầy đủ dẫn tới tình trạng tâm phế đều hư, tâm khí không thúc đẩy được âm huyết gây ra tình trạng ứ huyết, làm vùng ngực đau tức, thường gặp trong các bệnh như xơ cứng mạch vành.
Tâm khí không đầy đủ: gây huyết ứ làm trở ngại đến phế mạch làm cho phế khí không tuyên giáng dẫn tới chứng hen suyễn ví dụ như hen tim.
Tâm chủ về hành hỏa, nếu tâm hỏa phát ảnh hưởng tới phế âm một mặt xấu hiện những chứng tâm phiền hoặc mất ngủ,… một mặt xuất hiện những chứng ho, ho ra máu,…
1.2 Tâm và tỳ
Tâm chủ huyết và tỳ sinh huyết. Trong trường hợp tỳ khí hư không thực hiện chức năng vận hóa được thì tâm huyết sẽ kém gây ra hiện tượng hồi hộp, hay quên, mất ngủ và sắc mặt xanh gọi là chứng tâm tỳ hư.
1.3 Tâm và can
Tâm chủ huyết, can tàng huyết. Sự phối hợp với nhau giữa tạng tâm và can tạo thành sự tuần hành của huyết. Trên lâm sàng thường xuất hiện chứng can, tâm âm hư hoặc tâm, can huyết hư. Người bệnh có những biểu hiện như hồi hộp, hoảng hốt, sắc mặt xanh xao, chóng mặt, hoa mắt và móng tay không nhuận.
Can chủ về sơ tiết còn tâm chủ về thần chí. Hoạt động tinh thần chủ yếu do hai tạng can và tâm chịu trách nghiệm, tâm và can do huyết nuôi dưỡng. Khi hai tạng này có bệnh ngoài các chứng trạng về huyết kể trên còn có các chứng trạng về tinh thần như chứng mất ngủ, hồi hộp, hay quên, sợ hãi,…
1.4 Tâm và thận
Tâm ở trên thuộc hành hỏa, thuộc dương, thận ở phía dưới thuộc hành thủy thuộc âm. Hai tạng giao với nhau để giữ được thế quân bình hay còn gọi là thủy hỏa ký tế hay tâm thận tương giao. Trên lâm sàng, trong trường hợp thận thủy không đầy đủ không chế ước được tâm hỏa sẽ dẫn tới các chứng mất ngủ, hồi hộp, hay nằm mê, miệng lưỡi lở loét,… Thường được gọi là chứng tâm thận bất giao hay âm hư hỏa vương
1.5 Phế và tỳ
Phế chủ khí, tỳ chủ khí hậu thiên. Cả hai tạng này có liên quan với nhau rất mật thiết. Chứng khí hư trên lâm sàng thường xuất hiện những triệu chứng như thở ngắn, thở gấp, nói nhỏ, chán ăn, mệt mỏi và tiêu chảy,…
1.6 Phế và thận
Phế chủ khí còn thận nạp khí, Thận hư không nạp được phế khí sẽ dẫn tới hen suyễn, ho,…
1.7 Can và tỳ
Tạng tỳ chủ về vận hóa, can chủ sơ tiết. Sự thăng giáng của tạng tỳ và vị có quan hệ tới sự sơ tiết của tạng can. Nếu như sức tiết của can gặp trở ngại sẽ làm cho tỳ vị thăng giáng bất thường gây ra triệu chứng như đầy tức ngực, chán ăn, ợ hơi, đầy bụng,… thường gặp trong bệnh viêm loét dạ dày tá tràng hoặc viêm đại tràng,…
1.8 Thận và tỳ
Thận dương hay thận khí giúp cho tỳ vận hóa được tốt hơn. Nếu như thận dương hư thì tỳ dương cũng hư dẫn tới các chứng tiêu chảy ở người già, viêm thận mãn tính.
1.9 Can và thận
Can tàng huyết và thận tàng tinh. Thận kinh nuôi dưỡng can huyết, nếu như thận tinh không đầy đủ sẽ làm cho can huyết giảm sút. Thận có thận dương và thận âm, tạng can có can dương và can âm. Tạng can sẽ không được nuôi dưỡng nếu thận âm hư. Từ đó can dương vượng lên như trong bệnh tăng huyết áp xuất hiện những triệu chứng như chóng mặt, hoa mắt, mặt đỏ,…
2. Mối quan hệ giữa các tạng phủ
Phủ là những bộ phận của cơ thể có chức năng tiếp nhận, tiêu hóa, hấp thụ và vận chuyển các chất dinh dưỡng đồng thời bài tiết chất cặn bã. Bao gồm có 6 phủ đó là vị, đởm, đại trường, tiểu trường, tam tiêu và bàng quang. Theo học thuyết tạng phủ, các tạng phủ trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau theo quy luật vừa đối lập vừa nương tựa vào nhau để tạo cho cơ thể thành một khối thống nhất về cấu tạo và chức năng.
2.1 Tâm và tiểu trường
Tâm và tiểu trường có mối quan hệ biểu lý với nhau, trên lâm sàng nếu như tâm nhiệt thường dẫn tới các triệu chứng như đái đỏ, đái ít và nước tiểu nóng,… Phương pháp điều trị là thanh tâm lợi tiểu.
2.2 Tỳ và vị
Tỳ và vị là hai cơ quan giúp cho sự vận hóa thức ăn. Tỳ chủ vận hóa, tạng vị chủ thu nạp và tỳ nghét thấp ưa táo, vị nghét táo ưa thấp, tỳ lấy thang làm thuận còn vị lấy giáng làm hòa. Do đó, tính chất đặc trưng của tỳ vị đối lập với nhau giữa thấp và táo, giữ thăng và giáng nhưng lại thống nhất với nhau và bổ sung cho nhau để giúp cho quá trình tiêu hóa diễn ra bình thường.
Khi tỳ vị mắc bệnh, sự thăng giáng có thể đảo nghịch ví dụ như tỳ khí đưa thanh khí lên trên nhưng lại đưa xuống dưới được gọi là chứng tỳ hư hạ hãm gây ra các bệnh như tiêu chảy, sa trực tràng, sa sinh dục, rong huyết,… Tỳ khí đưa khí đi xuống nhưng lại đưa lên trên gây ra các triệu chứng nấc, nôn mửa,… Tỳ vị mắc bệnh gây nên sự đảo lộn về táo và thấp. Tỳ ghét thấp nhưng do tỳ hư không được vận hóa thủy thấp làm cho thủy thấp đình lại dẫn tới mệt mỏi, đi phân lỏng, phù thũng. Vị ghét táo nhưng do vị hỏa quá mạnh làm cho tân dịch bị khô dẫn tới vị âm hư có các chứng táo bón, chảy máu chân răng, loét miệng,…
2.3 Thận và bàng quang
Thận khí suy hay thịnh quyết định tới sự khí hóa ở bàng quang xấu hay tốt. Nếu như thận kém sẽ dẫn tới chứng dị niệu, tiểu tiện không tự chủ và đái dầm,…
Tóm lại, mỗi tạng hay phủ đều có chức năng khác nhau nhưng các tạng phủ trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau theo quy luật vừa đối lập vừa nương tựa vào nhau để tạo cho cơ thể thành một khối thống nhất về cấu tạo và chức năng.